Người lớn nên thừa nhận cảm xúc của trẻ thay vì chối bỏ
Những cảm xúc của trẻ có sự thù ghét làm dấy lên ở cha mẹ, thầy cô và những người khác có quyền với trẻ. Người lớn phải thừa nhận những cảm xúc này thay vì chối bỏ chúng. Dù cách thứ hai có vẻ dễ dàng hơn. Ba mẹ, thầy cô cũng cần hiểu rằng sự thù ghét ở trẻ không mang tính cá nhân. Trẻ bộc lộ lo âu về cảnh ngộ không hạnh phúc trước kia với những người cạnh trẻ trong hiện tại.
Không nên chỉ trích đứa trẻ để chúng càng tin rằng mình ” tệ” và không xứng đáng được yêu thương
Tất nhiên những gì mà người lớn cần làm với những cảm xúc thù ghét của chính mình là điều rất quan trọng. Niềm tin của trẻ cho rằng mình “tệ” và không xứng đáng được yêu thương không nên được củng cố thêm bằng những phản ứng từ người lớn. Người lớn chỉ cần bao dung với những cảm xúc này. Và nhận thức được rằng những cảm xúc đó là một phần của mối quan hệ. Đây là cách duy nhất để trẻ cảm thấy an toàn và có khả năng hình thành sự gắn bó.
Dù môi trường mới có tràn ngập yêu thương đến mấy cũng không thể xóa đi quá khứ của trẻ được; vẫn sẽ có những cảm xúc còn rơi rớt lại như là hệ quả từ trải nghiệm quá khứ của trẻ. Bác sĩ nhi khoa Winnicott thấy rằng không có con đường tắt nào dẫn đến giải pháp cả. Trẻ nghĩ rằng những cảm xúc thù ghét ở người lớn sẽ dẫn đến việc chối bỏ nó. Vì đó là những gì đã xảy ra trước kia. Khi sự thù ghét không khiến người bên cạnh trẻ chối bỏ mà còn được bao dung, thì dần dần nó sẽ được xua tan.
Cảm xúc của trẻ khi được ở cùng ba mẹ ruột và gia đình lành mạnh
Ngay cả đứa trẻ được sống cùng ba mẹ ruột và trong những gia đình có bầu không khí tâm lí lành mạnh. Sự thù ghét một cách vô thức vẫn là một phần tự nhiên và thiết yếu của trải nghiệm làm cha mẹ – “sự thù ghét thích hợp”.
Đầu tiên là trẻ cảm thấy ghét mẹ nó, nhưng khả năng là trước đó là người mẹ đã ghét đứa trẻ. Sự tồn tại của đứa trẻ đặt ra những yêu cầu quá lớn cho người mẹ cả về mặt thể chất lẫn tâm lí. Điều này khơi lên sự thù ghét ở người mẹ.
Lí do mà mẹ ghét trẻ có thể từ những nguyên nhân sau:
- Việc mang thai và sinh nở gây nguy hiểm cho sự sống của người mẹ;
- đứa trẻ là trở ngại cho đời sống riêng tư của mẹ;
- trẻ gây đau cho mẹ khi bú, thậm chí còn cắn mẹ.
- trẻ “đối xử với mẹ như thể một kẻ phục dịch không được trả công, một nô lệ”.
Bất kể những điều đó, người mẹ vẫn yêu đứa trẻ, yêu cả “cứt đái và tất cả”, nói như Winnicott. Với một tình yêu nguyên thủy mạnh mẽ và lớn lao vô cùng, và học cách làm thế nào để chấp nhận sự thù ghét con mình mà không làm gì tổn hại tới nó. Ông cho rằng, nếu không thể thù ghét đứa trẻ một cách thích hợp, người mẹ sẽ quay ngược những cảm xúc đó hướng vào chính mình, theo kiểu thống dâm và không lành mạnh.
Mối quan hệ giữa người bệnh và bác sĩ trị liệu
Những cảm xúc khởi lên trong thân chủ trong quá trình trị liệu tâm lý – thường là những cảm xúc về cha mẹ hoặc anh chị em – được chuyển dịch sang nhà trị liệu. Trong công trình của mình, bác sĩ Winnicott mô tả quá trình diễn ra khi nhà trị liệu, như một phần của quá trình phân tích, sẽ cảm thấy ghét thân chủ của mình.
Dù sự ghét bỏ này được thân chủ tạo ra như một phần cần thiết để thử thách xem nhà trị liệu có thể chịu được nó không. Người bệnh cần biết rằng nhà trị liệu có đủ mạnh và đáng tin cậy để chịu được sự công kích này không.
Phương pháp nuôi dạy trẻ trong thực tế- cảm xúc của trẻ – liệu có một ” gia đình hoàn hảo” ?
Chúng ta nên thực tế trong việc nuôi dạy trẻ, tránh đặt sự ủy mị thái quá lên trên sự chân thành. Trước ta là một đứa trẻ, sau này lớn lên thành người lớn, có thể chấp nhận và xử lí những cảm xúc tiêu cực vốn là điều tự nhiên và không thể tránh khỏi.
Với là một người thực tế và thực dụng. Họ không tin vào ý niệm huyễn hoặc về một “gia đình hoàn hảo”. Hay một thế giới nơi chỉ cần vài lời nói là có thể xóa tan mọi thứ kinh khủng đã diễn ra trước đó.
Họ muốn thấy một môi trường thực tế và những tâm trạng trong trải nghiệm của chúng ta hơn. Và yêu cầu mọi người cũng làm thế, với sự chân thành dũng cảm. Những tư tưởng của Bác sĩ Winnicott không thuộc hẳn về một trường phải nào. Dù chúng có ảnh hưởng lớn lao, và vẫn đang tác động lớn tới những ngành như công tác xã hội, giáo dục, tâm lí học phát triển và phân tâm học ở khắp nơi trên thế giới.